Món ăn – bài thuốc dùng sâm cau

0
857

Sâm cau có vị cay, tính ấm, hơi có độc, vào kinh thận, tác dụng ôn bổ thận khí, tráng dương, ôn trung, táo thấp, tán ứ, trừ hàn thấp, mạnh gân cốt, điều hòa tiêu hóa…

Theo đông y, sâm cau có vị cay, tính ấm, hơi có độc, vào kinh thận, tác dụng ôn bổ thận khí, tráng dương, ôn trung, táo thấp, tán ứ, trừ hàn thấp, mạnh gân cốt, điều hòa tiêu hóa…

Sâm cau còn là ngải cau, tiên mao, cồ nốc lan, tên khoa học Curculigo orchioides Gaertn, thuộc họ Tỏi voi lùn (Hypoxidaceae).

Sâm cau là loại cây thảo, sống lâu năm, cao 20 – 30cm, hay hơn. Lá 3 – 6, hình mũi mác hẹp, xếp nếp và có gân như lá cau, dài 20 – 40cm, rộng 2,5 – 3cm, cuống lá dài khoảng 10cm. Thân rễ hình trụ dài, mọc thẳng, dạng củ to bằng ngón tay, thót lại ở hai đầu, mang nhiều rễ phụ có dạng giống thân rễ, vỏ thô màu nâu, trong nạc màu vàng ngà. Cụm hoa 3 – 5, hoa nhỏ màu vàng, mọc trên một trục ngắn nằm trong những lá bắc lợp lên nhau. Quả nang, thuôn, dài 1,2 – 1,5cm, chứa 1 – 4 hạt.

Mùa hoa quả: tháng 5 – 7.

Sâm cau mọc hoang trên các đồi cỏ ven rừng núi của một số tỉnh ở miền Bắc Việt Nam và cũng tìm thấy trên vùng đồi núi cao ở Lâm Đồng.

Cây sâm cau

Cây sâm cau

Bộ phận dùng làm thuốc là thân rễ (căn hành), có tên dược liệu là tiên mao (Rhizoma Curculiginis). Người ta thu hái quanh năm, tốt nhất vào mùa thu. Đào lấy củ về, loại bỏ những rễ con, rửa sạch, cạo bỏ vỏ ngoài, ngâm nước vo gạo một đêm để khử độc, rồi phơi hoặc sấy khô.

Trong thân rễ sâm cau có chứa tinh bột, chấy nhầy, tanin, acid béo, beta-sitosterol, stigmasterol và các hợp chất flavonoid, các chất thuộc nhóm cycloartan, triterpenic, cycloartan glycosid là curculigosaponin (A, B, C, D).

Sâm cau là dược thảo có chứa steroid thiên nhiên, có tác dụng dạng testosteron (một nội tiết tố sinh dục nam).

Dược lý học hiện đại ghi nhận tiên mao có tác dụng chống oxy hóa, có khả năng làm nâng cao hệ miễn dịch, tăng cường năng lực hoạt động của tuyến sinh dục nam, tăng cường khả năng thích nghi của cơ thể trong điều kiện thiếu dưỡng khí hoặc môi trường có nhiệt độ cao, tăng cường hoạt động của tim, làm giãn mạch vành, bảo vệ gan, kháng viêm, chống huyết khối, chống nấm, chống co giật, giúp trấn tĩnh, giảm đau, cải thiện làn da, tăng cường hoạt động cơ bắp, chống lão hóa, giúp phòng chống đái tháo đường, ung thư.

Theo Đông y, sâm cau có vị cay, tính ấm, hơi có độc, vào kinh thận, tác dụng ôn bổ thận khí, tráng dương, ôn trung, táo thấp, tán ứ, trừ hàn thấp, mạnh gân cốt, điều hòa tiêu hóa.

Thường dùng chữa nam giới thận dương hư suy, tinh lạnh, số lượng tinh ít, liệt dương, khí lực giảm, tay chân yếu mỏi, bệnh suyễn, viêm gan vàng da; phụ nữ tử cung lạnh, khí hư bạch đới, tiểu đục, loãng xương sau mãn kinh; người cao tuổi thường bị tiểu đêm, tiểu són, lạnh bụng, lưng gối lạnh đau, phong thấp, viêm khớp mãn tính, vận động khó khăn, suy nhược thần kinh.

Ngày dùng 6 – 12g, dùng riêng hoặc phối hợp với các vị thuốc khác. Dạng thuốc sắc hoặc ngâm rượu để uống.

Một số bài thuốc có dùng sâm cau

Chữa hen, tiêu chảy: rễ sâm cau phơi khô, xắt lát mỏng, nhỏ, sao vàng.

Dùng 12 – 16g, nấu với 250ml nước, sắc còn 50ml, uống một lần trong ngày, trước bửa ăn.

Chữa tê thấp, đau nhức toàn thân: rễ sâm cau, hà thủ ô đỏ (chế đậu đen), hy thiêm thảo (cỏ đĩ), mỗi thứ 20g, xắt ỏng, nhỏ, ngâm với 500ml rượu trắng, trong 7 – 10 ngày (hoặc càng lâu càng tốt).

Ngày uống hai lần, mỗi lần 30ml, trước bữa ăn.

Chữa sốt xuất huyết: sâm cau 20g (sao đen), cỏ mực 12g, trắc bá diệp 10g (sao đen), chi tử 8g (sao đen).

Nấu với 600ml nước, sắc còn 200ml, chia làm 2 – 3 lần uống trong ngày, trước bữa ăn.

Sâm cau

Sâm cau

Chữa liệt dương do rối loạn thần kinh chức năng: sâm cau 20g, sâm bố chính, trâu cổ (sung thằn lằn), câu kỷ tử, ngưu tất, tục đoạn, thạch hộc, hoài sơn, ba kích thiên, mỗi thứ đều 12g; nữ trinh tử, ngũ gia bì mỗi thứ 8g.

Tất cả rửa sạch, xắt lát mỏng, nhỏ, phơi hoặc sấy khô, nấu với 750ml nước, sắc còn 300ml, chia 2 – 3 lần uống trong ngày, trước bữa ăn.

Hoặc dùng: sâm cau 20g, ba kích, phá cố chỉ, hồ đào nhục (óc chó), thục địa, mỗi vị 16g, tiểu hồi hương 4g. Nấu với 750ml nước, sắc còn 250ml, chia 2 lần uống trong ngày, trước bữa ăn.

Bài thuốc “Nhị tiên thang” gồm: sâm cau (tiên mao), dâm dương hoắc (tiên linh tỳ), đương quy, ba kích, mỗi thứ 12g. Nấu với 750ml nước, sắc còn 250nl, chia 2 lần uống trước bữa ăn.

Dùng chữa bệnh cao huyết áp, thíchhợp với nam giới bị liệt dương do thận dương suy, phụ nữ trong thời kỳ mãn kinh.

Một số món ăn – bài thuốc có dùng sâm cau

Thịt gà nấu sâm cau:

Nguyên liệu: thịt gà 250g, sâm cau 15g, dâm dương hoắc 15g. Gia vị các loại.

Cách làm: thịt gà rửa sạch, cắt miếng vừa ăn, ướp gia vị, để khoảng 20 phút cho thấm. Hai loại dược liệu rửa sạch. Tất cả cho vào nồi đất, nấu với lượng nước vừa đủ, đến khi thịt gà chín mềm. Nêm lại gia vị vừa ăn. Ăn khi còn nóng.

Tác dụng: bổ thận dương, bổ khí huyết, tăng cường sinh lực, trừ phong thấp. Rất có ích cho người bị rối loạn cương dương thể thận dương hư, đau lưng mỏi gối.

Rượu tiên mao:

Nguyên liệu: tiên mao (phơi sấy khô, xắt lát mỏng, phơi sấy khô, sao vàng) 50g, rượu gạo 500ml.

Cách bào chế: cho tiên mao vào rượu ngâm trong 7 – 10 ngày (hằng ngày lắc nhẹ bình ngâm 1 – 2 lần) là được.

Ngày uống 2 lần vào bữa ăn, mỗi lần uống khoảng 30ml.

Rượu này có tác dụng bổ thận dương, trừ phong thấp. Thường dùng chữa liệt dương, lưng đau lạnh, phong thấp, thần kinh suy nhược.

Sâm cau dùng liều cao và kéo dài sẽ gây cường dương mạnh, dẫn tới hao tổn tinh lực. Những người có thể trạng âm hư hỏa vượng: người gầy, da khô, lòng bàn tay bàn chân ấm, thường sốt nhẹ vào buổi chiều, ra mồ hôi trộm, đại tiện táo, tiểu tiện vàng đỏ, nóng bứt rứt trong người, phiền muộn… thì không nên dùng sâm cau.

Những người quá hư yếu, thể trạng kém, cũng không nên dùng.

 

Lương y Đinh Công Bảy