Doanh nghiệp cần có các biện pháp đảm bảo an toàn vệ sinh lao động

0
466

Đối với người lao động, tai nạn lao động là một nguy cơ có thể xảy đến với họ bất cứ lúc nào nếu họ bất cẩn khi làm việc. Hậu quả của tai nạn lao động không chỉ ảnh hưởng tới sức khỏe, tinh thần và thu nhập mà còn còn khiến lợi nhuận của doanh nghiệp bị tác động bởi chi phí bồi thường. Do vậy, việc có các biện pháp đảm bảo an toàn lao động trong doanh nghiệp là rất cần thiết đối với người lao động cũng như doanh nghiệp.

Vì vậy, doanh nghiệp không có các biện pháp đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động còn bị xử phạt hành chính. Đó là một trong những nội dung quan trong trong Nghị định 28/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 1/3 quy định xử phạt vi phạm hành chính lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, có hiệu lực thi hành từ ngày 15/4.

Theo Điều 20 của Nghị định, vi phạm quy định về các biện pháp đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động sẽ bị xử phạt như sau: Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1 triệu đồng đối với người sử dụng lao động có hành vi không lập hồ sơ vệ sinh môi trường lao động đối với các yếu tố có hại, phòng chống bệnh nghề nghiệp theo quy định của pháp luật.

Phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 10 triệu đồng đối với người sử dụng lao động có một trong các hành vi sau đây: Không xây dựng, ban hành, tổ chức thực hiện kế hoạch, nội quy, quy hình bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động tại nơi làm việc hoặc khi xây dựng không lấy ý kiến Ban chấp hành công đoàn cơ sở; Không bố trí bộ phận hoặc người làm công tác an toàn, vệ sinh lao động, công tác y tế, hoặc bố trí người làm công tác an toàn, vệ sinh lao động, công tác y tế nhưng người đó không đáp ứng đủ điều kiện theo quy định của pháp luật; Không bố trí đủ lực lượng sơ cứu, cấp cứu tại nơi làm việc theo quy định; Không tổ chức huấn luyện cho lực lượng sơ cứu, cấp cứu tại nơi làm việc theo quy định; Không phân loại lao động theo danh mục công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm và đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm để thực hiện các chế độ theo quy định.

Cũng theo Điều 20, quy định: phạt tiền từ 20 triệu đồng đến 25 triệu đồng đối với người sử dụng lao động có một trong các hành vi sau đây: Không định kỳ kiểm tra, bảo dưỡng máy, thiết bị, nhà xưởng, kho tàng theo quy định; Không trang bị các thiết bị an toàn, vệ sinh lao động tại nơi làm việc theo quy định; Không xây dựng, ban hành kế hoạch xử lý sự cố, ứng cứu khẩn cấp tại nơi làm việc; Không lập phương án về các biện pháp bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động đối với nơi làm việc của người lao động khi xây dựng mới, mở rộng hoặc cải tạo các công trình, cơ sở để sản xuất, sử dụng, bảo quản, lưu giữ các loại máy, thiết bị, vật tư, chất có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn, vệ sinh lao động; Không điều tra tai nạn lao động thuộc trách nhiệm theo quy định của pháp luật; không khai báo hoặc khai báo sai sự thật về tai nạn lao động, sự cố kỹ thuật gây mất an toàn, vệ sinh lao động nghiêm trọng; Không bảo đảm đủ buồng tắm, buồng vệ sinh phù hợp tại nơi làm việc theo quy định của pháp luật; Không trang bị phương tiện kỹ thuật, y tế để đảm bảo ứng cứu, sơ cứu kịp thời khi xảy ra sự cố kỹ thuật gây mất an toàn, vệ sinh lao động nghiêm trọng, tai nạn lao động.

Ngoài ra, theo khoản 3, Điều 10 Nghị định này quy định sẽ phạt tiền từ 50 triệu đồng đến 75 triệu đồng đối với người sử dụng lao động có hành vi cưỡng bức lao động, ngược đãi người lao động mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự. Cụ thể, phạt tiền từ 1 triệu đồng đến 3 triệu đồng đối với người sử dụng lao động có hành vi khi tạm thời chuyển người lao động làm công việc khác so với hợp đồng lao động nhưng không báo cho người lao động trước 3 ngày làm việc hoặc không thông báo rõ thời hạn làm tạm thời hoặc bố trí công việc không phù hợp với sức khỏe, giới tính của người lao động.

Bên cạnh đó, phạt tiền từ 3 triệu đồng đến 7 triệu đồng đối với người sử dụng lao động có một trong các hành vi sau đây: Bố trí người lao động làm việc ở địa điểm khác với địa điểm làm việc đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động, trừ trường hợp quy định tại Điều 31 của Bộ luật Lao động; Không nhận lại người lao động trở lại làm việc sau khi hết thời hạn tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động, trừ trường hợp người sử dụng lao động và người lao động có thỏa thuận khác; Chuyển người lao động làm công việc khác so với hợp đồng lao động không đúng lý do, thời hạn hoặc không có văn bản đồng ý của người lao động theo quy định của pháp luật.

Đồng thời, phạt tiền từ 50 triệu đồng đến 75 triệu đồng đối với người sử dụng lao động có hành vi cưỡng bức lao động, ngược đãi người lao động mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.

Minh Khuê